Thứ Năm, 26 tháng 11, 2009

tản mạn MỘT NHÀNH MAI...

Mấy hôm nay trời se lạnh, dường như đã vào đông rồi ! Cái lạnh giữa lòng Nam Bộ không là gì so với cái rét của xứ Bắc Hà, nhưng dù sao nó cũng có chút gì đó thay đổi, cũng có chút gì đó tạm gọi là dấu hiệu giao mùa giữa vùng đất quanh năm chỉ hai mùa mưa nắng.

Giữa khí trời ấy, buổi sớm không tranh thủ làm một ấm trà thì tiếc quá !

Nước vừa sôi, tráng ấm tử sa, ủ hương trà Bắc, chén trà Mộc Châu xanh sắc rêu non say lòng khách tục, lòng chợt lâng lâng như hoán cốt lên tiên dù rằng mình vẫn còn ngồi nơi bến tục. Trầm nhẹ đưa hương, trà vừa thấm vị, lần mở cảo thơm, soi gương thiền sử, kẻ phàm trần như muốn tìm chút dư hương “thiền trà nhất vị” của thánh triết hiền nhân.

Trà vừa đôi chén, hồn phách đã như lạc tận nước Nhược non Bồng, dõi mắt ra song như để trút mảnh hồn tan vào hư vô bất tận. Chợt ngoài lớp song thưa, mai già báo hỉ dẫu rằng Xuân vẫn chưa sang, chắc có lẽ mấy hôm nay trời lạnh nhiều nên một vài cánh mai sớm ươm hương xé nụ, cười giữa gió đông, đẹp quá ! Lòng bất chợt nhớ đôi câu thơ của Thầy Hoàng Bá Hy Vận :

 

不是一番寒彻骨

怎得梅花扑鼻香

 

Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt

Chẩm đắc mai hoa phốc tỷ hương.

 

 

Chẳng phải một phen sương lạnh buốt

Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.

 

Nói đến hoa mai là nói đến cái cốt cách ngạo tuyết, cợt sương để đưa hương theo gió. Có phải chăng vì cái tính hiên ngang bất khuất pha chút ngạo đời ấy mà tự cổ chí kim, đã làm phí đi không biết bao nhiêu bút mực và tâm tư của tao nhân mặc khách. Từ ý tứ giữa câu thơ cho đến nét thần trong đường bút, ai ai cũng như muốn phác hoạ nên cái cốt cách thanh cao của cành mai mùa rét. Thiếu niên Hoàng Giáp Thân Quốc Công Nguyễn Trung Ngạn (1289 – 1370) danh thần phù trợ Trần triều đâu chẳng từng lưu lại 2 câu thơ thần :

 

野梅骨骼原非俗

海鹤风姿自不群

 

Dã mai cốt cách nguyên phi tục,

Hải hạc phong tư tự bất quần.

 

Cốt cách mai rừng không phải tục,

Phong tư hạc biển vượt xa bầy

 

Còn gì hơn thế nữa chăng ?! Đẹp quá và cũng thanh cao quá ! Quả thật là như Vương Kỳ đã nói :

 

不受尘埃半点侵, 
竹篱茅舍自甘心。

只因误识林和靖,

惹得诗人说到今。

 

Bất thụ trần ai bán điểm xâm,

Trúc li mao xá tự cam tâm.

Chỉ nhân ngộ thức Lâm Hoà Tĩnh,

Nhược đắc thi nhân thuyết đáo câm 

 

Bụi trần chẳng chút vướng vào thân

Giậu trúc nhà tranh tự dự phần

Cũng bởi nhầm quen Lâm Hòa Tĩnh

Thi nhân từ đấy bút lưu thần

 

Cái cốt cách ấy, khi thì như một đại tướng quân hiên ngang dũng mãnh, phá tuyết nghênh sương để đưa hương tô cốt cách mà không phải loài hoa nào, giống cây cỏ nào cũng có thể làm được. Bởi thế, trong tác phẩm trứ danh “Hồng Lâu Mộng” Tào Tuyết Cần thác lời nhân vật để ca ngợi hoa mai trong bài “Vịnh Hồng Mai Hoa”:

 
 
桃未芳菲杏未红, 
冲寒先已笑东风。

 

Đào vị phương phi hạnh vị hồng,

Xung hàn tiên dĩ tiếu đông phong.

 

Đào chửa thơm hương hạnh chửa hồng,

Đã xông gió rét cợt đông phong.

 

Mỗi từ, mỗi câu cứ khiến cho người ta rơi vào trạng thái lâng lâng khó tả. “Xung hàn tiên dĩ tiếu đông phong” hình tượng mới đẹp làm sao, nhắm mắt lại để câu thơ ngân nga phác hoạ ra trong tâm trí hình ảnh của một chàng Triệu Tử Thường Sơn thuở nào nơi chiến trường nhất nhân nhất mã ngang dọc tung hoành, rồi để khi trở về vinh quang toả sáng trên đầu ngọn giáo, giữa mảnh chiến bào!

Nhưng cũng cái cốt cách ấy, có khi khiến cho người ta liên tưởng tới một vị thanh quan “lưỡng tụ thanh phong” cả đời liêm khiết, nhưng với khí tiết phù chánh trừ tà, không uốn lưng vào luồn ra cúi. Trên từng cách hoa, từng làn hương thoảng đưa theo gió, ta lại liên tưởng tới Đào Uyên Minh, Bao Thị Chế hay Hải Thanh Thiên “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất

 

雪虐风号愈凛然, 
花中气节最高坚。

 

Tuyết ngược phong hiệu dũ lẫm nhiên

Hoa trung khí tiết tối cao kiên.

 

Tuyết lớn gió to càng dũng mãnh

Trong muôn hoa khí tiết lưu danh.

 

Hay :

东风才有又西风, 
群木山中叶叶空。
只有梅花吹不尽, 
依然新白抱新红。

 

Đông phong tài hữu hựu tây phong,

Quần mộc sơn trung diệp diệp không.

Chỉ hữu mai hoa xuy bất tận,

Y nhiên tân bạch bão tân hồng.

 

Gió đông vừa chớm gió tây qua

Lá rụng, non trơ những gốc già,

 

Riêng chỉ mai là không thể hết

Đoá hồng đoá trắng mấy lần hoa.

 

Và có phải chăng vì thế mà Trúc Lâm Thiền Phái đệ tam tổ sư Huyền Quang tôn giả đã đưa hoa mai lên hàng Ngự Sử đại phu, chuyên trách can gián nhà Vua tránh đi vào con đường lầm lỗi :

 

Ngự sử mai, hai hàng chầu chắp,

Trượng phu tùng,  mấy rặng phò quanh.

 

Quả là một hình ảnh mới cho hoa mai, khoác áo công khanh dự bước vào triều đàng cùng bàn quốc sự, tuy vậy mà vẫn không bị gấm vóc chốn vương hầu làm phai mờ đi cốt cách và khí tiết thanh cao, đúng như lời nhận xét của Vương An Thạch “Lăng hàn độc tự khai” !

Mà đâu chỉ ca ngợi thôi, mặc khách thi nhân đâu đã chẳng từng đạp nát trời kim cổ, lướt tuyết mạo phong chỉ vì cầu lấy một cành mai. Chẳng phải thế ư ? Cao Chu Thần một đời ngạo nghễ, coi công hầu như gió thoảng bên tai, văn chương thi phú đến cả Nguyễn triều Dực Tông Hoàng Đế Tự Đức còn phải ban ngự thi khen ngợi hết lời “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán” vậy mà khi đứng trước hoa mai cũng phải cúi đầu trước cái khí tiết thanh cao, cái cúi đầu mà ông xem là cả đời chỉ có một :

 

十载论交求古剑

一生低首拜梅花

 

Thập tải luận giao cầu cổ kiếm,

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.

 

Mười năm mòn gót cầu kiếm cổ

Một đời chỉ cúi lạy hoa mai.

 

Mà đâu chỉ thế, Tào Tuyết Cần còn cam tâm tình nguyện lên tận cung Quảng Hàn, nguyện làm ăn mày chỉ để xin lấy một cành mai dưới thềm của Thường Nga :

 
不求大士瓶中露, 
为乞嫦娥槛外梅。

 

Bất cầu Đại Sĩ bình trung lộ,

Vi khất Thường Nga hạm ngoại mai.

 

Chẳng cầu cam lộ bình Bồ Tát

Chỉ nguyện nhành mai cửa Ả Hằng.

 

 

 

Vẻ đẹp cùng với sắc hương tịnh khiết đặc biệt của hoa mai lắm khi khiến nguời ta liên tưởng đến một thiếu nữ phòng khuê hương trời sắc nước khiến lòng người quân tử trộm nhớ thầm yêu :

 

我爱梅花兼爱月

一梅一月两佳人

 

Ngã ái mai hoa kiêm ái nguyệt,

Nhất mai nhất nguyệt lưỡng giai nhân.

 

Ta rất yêu mai lại yêu trăng

Mai, trăng hai khách đẹp tuyệt trần

 

Đây cũng là một nét hay của cành mai muôn thưở. Nếu người xưa xem tùng, trúc là trượng phu quân tử, xem liễu là má phấn quần thoa thì đoá mai kia lại có lúc mang hình tướng của tu mi nam tử, nhưng không ít khi lại hoá thân thành thiếu nữ phòng khuê, nên đã từng có ý cho rằng, phải chăng hoa mai chính là hiện thân của Đức Quán Thế Âm trong loài thảo mộc?! Mà cũng dễ hiểu thôi, bởi lẽ mai không những giống cành trúc gốc tùng ở cái khí tiết, hơn thế nữa mai còn có điểm nổi trội hơn hai người bạn mùa đông đó là sắc và hương. Nếu không thế thì Lâm Bô Lâm Hòa Tĩnh (967-1028) một hiền sĩ ở Cô Sơn thời Tống đã không “cưới mai làm vợ nuôi hạc làm con” mà sau này đại thi hào Nguyễn Du cũng đã đồng cảm, men lại dấu xưa :

 

Nghêu ngao vui thú yên hà

Mai là bạn cũ, hạc là người quen.

 

Ngay cả như Nguyễn Trãi cũng học lấy Lâm Bô kết bạn cùng mai, xem đó là tri kỷ :

 

Xuân đến hoa nào chẳng tốt tươi

Ưa mi vì tuyết sạch hơn người

Gác đông ắt đã từng làm khách

Há những Bô Tiên kết bạn chơi ?

 

Dường như, lúc nào người tri kỷ ấy cũng kề vai sát cánh cùng ông như chưa từng có một phút giây xa rời bằng những hình ảnh hiện lên thật đẹp trong “Ngôn Chí”:

 

Trà mai đêm nguyệt dậy xem bóng,

Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu.

 

Hay :

 

Quét trúc, bước qua lòng suối

Thưởng mai, về đạp bóng trăng.

 

 

Và chính bản thân Nguyễn Trãi cũng đã bộc bạch tình yêu ấy của ông trong “Đề Hoàng Ngự sử mai tuyết hiên” :

 

爱梅爱雪爱缘何?

爱缘雪白梅芳洁

 

Ái mai ái tuyết ái duyên hà ?

Ái duyên tuyết bạch mai phương khiết.

 

Yêu mai yêu tuyết do đâu ?

Yêu do sắc tuyết, do mùi hương mai.

 

Chính vì tình yêu tha thiết ấy đối với hoa mai, nên những khi trên bước đường lưu lạc, lúc nào đó vô tình hạnh ngộ khách đồng hương từ quê tới, hoa mai lại có dịp xuất hiện trong lời hỏi thăm như một người thân bao năm cách trở :

 

君自故乡来,

应知故乡事。

来日绮窗前,

寒梅著花未?

 

Quân tự cố hương lai,

Ưng tri cố hương sự.

Lai nhật khởi song tiền,

Hàn mai trước hoa vị.

 

Anh từ quê hương đến,

Chắc biết chuyện quê hương

Trước cánh rèm ngày ấy,

 Hàn mai nở hoa chưa ?

 

Chẳng hỏi người thân cũng không hỏi gia cảnh, chỉ hỏi cành mai bên song năm cũ, vậy mà Vương Duy đã làm nhói lòng lớp lớp hậu thế mãi ngàn sau !

Ôi, điểm qua di cảo của tiền nhân mới thấy sức cuốn hút mãnh liệt của một cành mai mỏng manh trong gió tuyết. Năm lại tháng qua, thời gian tích luỹ, lời thơ tiếng nhạc ca ngợi đoá hoa mai sắc thanh hương đượm ấy vẫn không cạn nguồn. Một gốc xù xì mươi cành mảnh khảnh, một cánh hoa mỏng một làn hương đưa, bình thường quá nhưng sao cũng phi thường quá :

 

寒夜客来茶当酒, 
竹炉汤沸火初红。

寻常一样穸前月,

才有梅花便不同。

 

Hàn dạ khách lai trà đương tửu,

Trúc lô thang phí hoả sơ hồng

Tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt

Tài hữu mai hoa tiện bất đồng.

 

Trà thay chén rượu giữa đêm đông,

Tiếp khách, nước đun lửa mới hồng

Vẫn mảnh trăng xưa ngoài song cũ,

Thêm nhành mai chợt ý thêm nồng.

 

Quả là cái tầm thường làm nên sự phi thường, chỉ một nhành mai thôi mà làm cho khung cảnh bình thường trở nên có một sức hút đến lạ, là ngòi bút của Vương Duy quá tài tình?! Là cốt cách của cành mai xưa quá thanh cao tịnh khiết?! Hay chính do  lòng Thi Phật đã quyện cùng hồn hoa Quân tử, hoa và người đã nhập lại thành chung để rót tình trên đầu ngọn bút cho lưu xuất thơ thần ?!

Và có nên chăng khi ta cũng hiểu rằng, Mãn Giác thiền sư đã vì cái phi thường ẩn chứa trong vóc dáng bình thường của hoa mai, nên đã mượn hình ảnh ấy để truyền tải một yếu chỉ cao thâm nơi chốn  Thiền môn Phật cảnh:

 

春去白花落

春到百花开

事逐眼前过

老从头上来

莫谓春残花落尽

庭前昨夜一枝梅

 

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

 

Xuân đi trăm hoa rụng,

Xuân đến trăm hoa cười

Việc trước mắt trôi mãi

Trên đầu già đến rồi

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai.

 

 

Kinh bảo núi Tu Di nhét vào hạt cải, nay Thiền sư mang ba ngàn thế giới đặt cả trên cánh hoa mai. Sinh là đây, tử là đây và giải thoát cũng là đây ! Yếu chỉ uyên nguyên, thâm sâu diệu vợi, ai thầm nhận được tức đã vô cửa Thiền sư! Ôi vi diệu làm sao “đêm qua sân trước một nhành mai”!

Thế mới thấy, dưới ngọn bút văn nhân danh tướng ôm lòng nhập thế hay xuất tục thoát trần như một Thiền sư, cành mai vẫn lung linh ngàn năm không băng hoại, gieo vào lòng người một nét đẹp ngọc khiết băng thanh. Ngắm mai sớm, nhấp chung trà,

 

vén cỏ đôi bờ tầm vết tiền nhân thuở trước, lòng kẻ hậu sinh không khỏi bồi hồi, bất chợt dấy lên cảm xúc :

 

Đêm đông gió lộng suốt canh dài,
Đối nguyệt hồn như đã nhuốm say !
Tức cảnh muốn theo người năm cũ,
Một phen đạp tuyết để tìm mai !

 

Ơi hỡi tiền nhân nét bút xuất thần nào đã phác hoạ, hỡi mai hoa một cuộc đời tịnh khiết, được văn nhân bầu bạn đến bao đời !

Gió đông chớm dậy, và ta lại học người xưa cúi đầu trước một loài hoa……

 

 

Daõ Haïc Cö muøa ñoâng naêm Kyû Söûu

Sôn daõ cuoàng nhaân Leâ Ngoïc Ñình baùi buùt

 

 

 

 

 

6 nhận xét:

  1. "Đông chưa tàn Xuân như đã tới
    Rực rỡ mai vàng khoe sắc lả lơi"

    Tặng nhà nho 2 câu thơ chợt nghĩ ra để tỏ lòng ngưỡng mộ.

    Trả lờiXóa
  2. @daquynhhuong : Đình cảm ơn chị đã ghé Dã Hạc Cư chia sẻ cùng Đình một cảm xúc đầu đông, Đình rất vui ! cảm ơn hai câu thơ ứng khẩu của chị, Đình sẽ mãi trân trọng, nhưng thật là Đình không dám nhận 2 từ "ngưỡng mộ" đâu ạ, chị nói thế Đình tổn đức chết !
    kính chúc chị một ngày cuối tuần thật vui !

    Trả lờiXóa
  3. Bài viết thật xuất sắc
    Thời nay kể được mấy người
    Đạp tuyết tìm mai để nhuốm say!?

    Trả lờiXóa
  4. @duongthan : cháu cảm ơn chú đã dành chút thời gian sang thăm và đọc bài cháu viết, tiếc rằng kiến thức còn nông cạn tuổi đời chưa bao nhiêu nên để chú phải chê cười.
    Kính chúc chú sức khoẻ và niềm vui trong cuộc sống.

    Trả lờiXóa
  5. @duongthan : ôi, cháu cảm ơn Chú, đẹp quá đi !

    Trả lờiXóa